27-Jun-2012
LTS: Hồi Ký “Bên Nhau Trọn Đời” của bà Nguyễn Thụy Nga qua bài đọc của tác giả Nguyền Hồng Trân không những hấp dẫn như một quyển tiểu thuyết trinh thám, mà lại còn có thể đóng góp như một nguồn tài liệu cho lịch sử trong giai đoạn liên quan. Những dữ kiện chính trị làm phông nền liên kết các câu chuyện đã làm cho bài viết có giá trị khả tín rất cao. Chính cái tâm tình ngay thật, lời lẽ không bóng bẩy, cầu kỳ, lý tưởng cao cả và thực tiễn, chứ không có tính cách mông lung, hay chính trị mồi chài ,... đã thuyết phục độc giả một cách tự nhiên. Những hy sinh, tri thức cũng như ý thức về thời cuộc của một bậc nữ nhi trong thời chiến như thế, thật đáng cho ta khâm phục. Tác giả Hồng Trân viết bài đọc về quyển Hồi Ký của bà Nguyễn Thụy Nga là việc làm rất đáng hoan nghênh. (SH)
TỦ SÁCH VÀ TÀI LIỆU GIA ĐÌNH
Nguyễn Hồng Trân & Thái Lê Phương
- o0o -
TÔI ĐÃ ĐỌC HỒI KÝ
“BÊN NHAU TRỌN ĐỜI”
CỦA BÀ NGUYỄN THỤY NGA
(Vợ Sau Của Cố TBT LÊ DUẨN)
- o0o -
HUẾ-QUÝ XUÂN NĂM TÂN MÃO = 2011
PHẦN I
Tôi đã từng đọc nhiều loại Hồi ký của các bà, các mẹ, các chị em Việt Nam ta qua vài thế hệ gần đây. Hồi ký nào cũng ghi lại được những niềm vui, nỗi buồn của cuộc đời cá nhân đã trải qua bao thăng trầm diễn biến của xã hội, đất nước chiến tranh, nhân dân mình đau khổ…
Cứ đọc xong một quyển Hồi ký của một tác giả là trong tôi bùi ngùi một tình thương sâu nặng và kéo dài trong tâm tư mãi hoài qua năm tháng… Nhất là khi đọc Hồi ký [HK] “Bên nhau trọn đời” của bà Nguyễn Thụy Nga (Bảy Vân) là một trong những Hồi ký đã để lại trong tôi nhiều cảm xúc thực sự mến thương, kính phục bà Nga nói riêng và kính phục những người phụ nữ Việt Nam đã chịu thương, chịu khó, một lòng chung thuỷ với chồng con, với quê hương Tổ quốc!...
Tôi đã may mắn được một người bạn thân đưa tập HK của bà cho tôi đọc. Tôi càng đọc càng thấy hấp dẫn về những điều bà kể lại một cách giản dị, chân thực giàu tình cảm, tỉnh táo lý trí, trong sáng tâm hồn, vững vàng tinh thần cách mạng của một người đàn bà Nam Bộ đầy bản lĩnh thủy chung, trung hiếu. Đồng thời qua HK của bà mà tôi được hiểu biết thêm về người chồng của bà là Cố TBT Lê Duẩn- người bạn thân với bác tôi là Nguyễn Bá Sam (Bí thư chi bộ Đảng đầu tiên của thôn Phú Long, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, năm 1930). Tuy vậy, bà cũng không viết gì nhiều về chồng mình-một lãnh tụ xuất sắc của Đảng CSVN. Có lẽ bà cũng biết rằng có nhiều nhà báo, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, chính trị, xã hội và các vị lão thành cách mạng đã viết nhiều về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng yêu nước của chồng bà rồi. Vì vậy trong HK của bà chỉ nêu ra vài nét có liên quan đến cuộc đời riêng tư của bà với ông Duẩn mà thôi. Bà đã viết:
“Tuy có một quá khứ 32 năm làm vợ của anh, cùng chung nhau có quá trình 9 năm chống giặc Pháp và 30 năm chống giặc Mỹ, nhưng sự hiểu biết của tôi đối với anh còn quá ít, tôi không đủ sức làm thỏa lòng bạn đọc muốn biết về anh. Tôi xin lỗi… Tôi chỉ chân thành kể cho bạn đọc nghe một cuộc đời có góc cạnh của một cô tiểu tư sản học sinh có máu nóng, có trái tim hòa nhịp đập cùng dân tộc qua bao thăng trầm của đất nước… Cho nên cuộc đấu tranh của tôi vì Tổ quốc cũng như tình yêu của tôi không bao giờ suôn sẻ cả gần trọn một đời người…” (Trích đoạn Lời nói đầu của HK trang 3,4).
Thời thơ ấu của bà Bảy Vân thì cũng không có gì đặc biệt lắm, cũng giống nhiều gia đình chị em khác trong xã hội, nhưng cái khác của bà là biết nuôi dưỡng cái tinh thần tự trọng, cái danh dự của một gia đình trí thức là luôn luôn tôn trọng lẽ phải, phụng sự chính nghĩa mà quyết tâm thực hiện những điều mình cần phải làm cho xứng đáng một con người có học thức, có bản lĩnh…
Trong HK bà chỉ phác qua mấy nét chính thôi nhưng chúng ta cũng hiểu được hoàn cảnh của bà từ thuở ấu thơ cho đến khi trưởng thành. Bà ghi rằng:
Thế là cả gia đình mẹ góa, con côi với 9 miệng ăn làm sao mà sinh sống nổi? Bà mẹ góa phải đành bán nhà và đất đai ở Cù Lao Phố rồi về ở làng Tam Hiệp ở trong một cái nhà tranh vách đất. Dù vậy nhưng gia đình bà vẫn được làng xóm thương cảm, quý mến. Hơn nữa tiếng tăm của một ông già đã từng làm Tri huyện rất công tâm, biết thương dân vẫn còn lưu lại trong dân gian nên đội lính hương vệ trong làng không giám để ý dò xét nhà bà.
Đầu những năm bốn mươi, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, nhiều cán bộ hoạt động ở Nam Kỳ bị kêu án tử hình vắng mặt đã về nhà bà trốn tránh... Dần dà cô bé Nguyễn Thụy Nga được mấy anh, mấy chú giác ngộ cách mạng và tự nguyện tham gia một số việc nhỏ giúp cho các vị cán bộ CS hoạt động thuận lợi.
Bà Nga đã ghi trong HK:
Nhờ sự dìu dắt tận tình của ông Nguyễn Văn Tiếp - Bí thư tỉnh ủy Mỹ Tho, dần dần Thụy Nga mạnh dạn tham gia cách mạng một cách nhiệt tình, mưu trí để liên lạc và chuyển tài liệu và vật quý về các cơ sở được an toàn. Bà kể rằng:
Thế rồi sau một thời gian, cô gái xinh đẹp Thụy Nga đã lọt mắt được một người mà cô cảm thấy yêu thương thực sự. Đó là một cán bộ hoạt động bí mật từng bị kêu án tử hình đang bí mật trốn ở ngay trong nhà Nga, anh ta nhiệt tình bày vẽ cho Nga học hành văn hoá và hướng dẫn tham gia công tác cách mạng... Sau đó, mối tình của hai người cũng chẳng đi đến đâu, vì một lẽ anh ta đã có vợ con rồi thì cũng khó cho cô gái Thụy Nga yên tâm để theo đuổi mối tình phiền toái đó.
Chuyện mối tình đầu này cô Thụy Nga cũng đã thổ lộ trong HK rằng:
Thấy thái độ người bạn lo lắng, ái ngại nên cô Nga cũng chẳng muốn làm phiền lòng bạn nữa, cô đi tìm cơ sở nơi khác và luôn luôn giữ gìn bí mật các hoạt động của mình với các đồng đội ở trong vùng địch. Ban ngày thì cô lo đi làm ăn kiếm sống, ban đêm viết truyền đơn và tổ chức đi rải ở các trường học, các chợ quán để kêu gọi sinh viên và giáo chức chống Pháp. Nhiều lúc cô phải viết truyền đơn bằng tay trái để nét chữ khác đi, làm cho bọn mật thám địch không biết được.
Sự hoạt động khôn khéo của cô đã làm cho các đồng chí lãnh đạo Đảng địa phương rất tin tưởng. Đồng chí Hai Miên (trong kháng chiến chống Pháp đồng chí đã làm Trưởng Ban Điệp báo tỉnh Bạc Liêu) đưa cô về Tỉnh ủy Bạc Liêu nhận công tác mới. Tại đây cô được học tập các khóa chính trị ngắn hạn rồi được phân công về Ban điệp báo của ta hoạt động ở chợ Cà Mau và Bạc Liêu. Để làm tốt công tác này cô Nga phải lăn lộn trên thị trường như một người buôn bán thực sự. Khi thì bán bánh bèo, khi thì bán cam... Một lần gặp nguy, cô tưởng mình bị lộ là điệp báo viên Việt Minh, nhưng rồi đã vượt qua được, cô cũng hết hồn, bạt vía. Cô đã kể lại trong HK của mình như sau:
Chuyện anh Ba Duẩn lấy vợ cũng không đơn giản chỉ nghe các đồng chí lãnh đạo trong Trung ương cục có lòng tốt động viên, xui khiến mà anh nghe dễ dàng như vậy đâu. Thực ra mà nói, sau hơn chục năm vào Nam Bộ hoạt động cách mạng, xa vợ con gia đình ở vùng địch chiếm không hề liên lạc gì được. Bọn giặc thì ráo riết truy tìm những gia đình có người đi theo Việt Cộng mà còn liên hệ gắn bó thì chúng nó sẽ ám hại. Vì vậy mà có một số gia đình đành phải làm tờ ly khai với những người thân ruột thịt và chịu bị ép đi lấy chồng, lấy vợ khác để cho gia đình và bà con thân thuộc khỏi bị liên lụy. Đó là một thực tế mà đồng chí Lê Duẩn thấy rất đau lòng mỗi lần nghĩ đến vợ con gia đình ở miền quê hương (làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị). Nhiều lần các bạn bè, đồng chí trong cơ quan rất thương anh Ba sống cảnh cô đơn hoài nên họ cứ giới thiệu cho anh Ba mấy đám và khuyên anh lấy vợ để khi trái gió, trở trời có người chăm sóc; khi sướng khổ, vui buồn có người chia sẻ mới có thêm sức mạnh tinh thần mà yên tâm công tác. Anh Ba rất cám ơn mọi người đã nhiệt tình quan tâm đến đời tư của anh rồi anh băn khoăn suy nghĩ mãi mà không dám quyết định lấy vợ. Về sau, nhờ sự khuyến khích chân thành hoài của các đồng chí trong cơ quan đoàn thể và nhất là khi được quen biết cô Thụy Nga (Bảy Vân) thì anh Ba mới tán thành việc lấy vợ trong Nam.
Còn cô Thụy Nga, sau những năm tháng lăn lộn sóng gió với cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian khổ, cô vẫn không quên mối tình đầu xa xưa cứ âm ỷ trong lòng cô, nhưng rồi cô cũng không thể nhen nhóm lại ngọn lửa tình rắc rối đã theo cô trong 11 năm ròng với một anh chàng trí thức đẹp trai đã có vợ con... Thế rồi cô đành phải chia tay với người tình cũ để tìm kiếm một niềm tin và hy vọng mới cho cuộc đời dài lâu. Cô mong ước sẽ có được một người tâm đầu ý hợp với cô để cô yên tâm xây dựng tổ ấm gia đình và phục vụ công tác cách mạng. Và thế, sau một thời gian thì ước mong của cô đã thành sự thật. Cô được lên “Thuyền hoa” về bến đậu gia đình vợ chồng trong một thời gian và không gian tình ái thật đặc biệt. Trong HK của cô đã ghi:
Anh Ba Duẩn và chị Bảy Vân ở miền Đông hơn một năm thì anh Ba ra Miền Bắc dự Hội nghị TW, chị Bảy về Miền Tây làm công tác phụ nữ Nam Bộ, lo đi vận động thuế nông nghiệp. Sau đó chị Bảy cùng chị Đoàn Kim Định (Hội phó Hội phụ nữ Nam Bộ) được phân công tác tư tưởng chính trị lớp y tá, hộ sinh 18 tháng do ông bác sĩ Nghiệp và chị Ba Thương phụ trách. Cũng nhờ lớp học đó mà cô Bảy biết thêm nghề đỡ đẻ. Vì tới giờ chính trị thì 2 cô giảng bài và hướng dẫn chị em thảo luận, con khi chị em học chuyên môn thì hai cô Bảy và Định cũng dự học đủ bài bản và đi thực tập như chị em y tá. Nhờ vậy mà sau này, khi xong lớp học, hai cô có thêm nghề phụ đỡ đẻ cũng thuận lợi cho hai cô gần gũi dân để vận động mọi người dân làm tốt nghĩa vụ của mình.
Trong Hồi ký cô Thụy Nga có đoạn đã ghi:
“Mãi về sau này, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, nghề hộ sinh mà tôi học được càng có tác dụng cao trong công tác phụ nữ của tôi. Tôi rất nhớ ơn anh bác sĩ Chín Nghiệp và chị Ba Thương đã cho tôi biết thêm một nghề có giá trị...” (trích đoạn HK trang 59),
Thời gian này ông Ba Duẩn đang ở miền Bắc. Các vị lãnh đạo trong TW Cục bàn bạc cho cô Bảy trở về Sài Gòn đem cháu Vũ Anh ra Bắc bằng con đường từ Sài Gòn sang Hồng Kông ra Việt Bắc. Nhưng chuyến chuẩn bị đi đó không thành, cô Bảy trở về miền Tây công tác. Sau một thời gian, ông Duẩn trở vào Nam gặp vợ và kể nhiều chuyện về gia đình và tình thế đất nước ta cho vợ nghe. Càng nghe cô càng thương yêu, quý trọng anh và cũng rất lo lắng cho anh Ba trong những năm tới ở miền Nam hoạt động lãnh đạo của anh rất gian nguy, phức tạp... Trong HK của cô đã viết:
PHẦN II
Sau khi chuyến tàu của Ba Lan đưa đoàn người tập kết ra Bắc cập bến Sầm Sơn Thanh Hoá vào dịp Tết âm lịch. Mọi người ở lại ăn Tết vài ngày rồi phân tán đi về các nơi quy định. Mẹ con cô Nga sau đó được đưa về Hà Nội và được các đồng chí lãnh đạo đến thăm hỏi rồi bố trí cho mẹ con cô nơi ăn chốn ở và tạo điều kiện cho cô tham gia công tác ở Hà Nội. Trong thời gian đầu sống ở miền Bắc chưa quen, hai mẹ con gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt đời sống, cũng như về môi trường thời tiết… Nhưng rồi cô Nga và con gái Vũ Anh cũng vượt qua và quen dần cuộc sống thực tại trong hoàn cảnh khó khăn chung của cả miền Bắc lúc bấy giờ. Trong HK cô đã ghi:
Khi cô Nga được làm công tác báo chí Phụ nữ Việt Nam, cô rất hứng thú với nghề nghiệp ấy. Cô rất hăng hái đi thực tế nhiều nơi để nắm bắt kịp thời tình hình dân chúng và xã hội trong tình cảnh đất nước ta còn bị chia cắt hai miền. Những điều gì cô thấy được, nghe được qua các nguồn thông tin trong và ngoài nước đã giúp cô hiểu được nhiều vấn đề sâu sắc tinh vi trong những diễn biến về chính trị xã hội lúc bấy giờ. Trong HK của cô đã viết:
Cuối năm 1956, có chủ trương của Nhà nước đi sửa sai cuộc Cải cách ruộng đất ở Miền Bắc. Cô Nga cũng được cử đi cùng với một số cán bộ về các tỉnh để thực hiện việc sửa sai. Vốn chưa quen với cảnh khổ nghèo và phong tục tập quán ở nông thôn phía Bắc nên cô đã gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt đời sống cũng như về công tác sửa sai trong tình thế khó xử lúc bấy giờ. Nhưng cô đã vượt qua tất cả và chỉ đọng lại trong lòng cô một nỗi xót xa của chủ trương chính trị-xã hội giáo điều của nước ta hồi đó đã bắt chước rập khuôn như kiểu Trung Quốc [TQ]. Trong HK của cô có đoạn đã ghi:
Do sai lầm về Cải cách rộng đất mà Bác Hồ rất đau lòng đã khóc trong Hội nghị. Bác nói Đảng và Chính phủ ta đã sai lầm trong Cải cách ruộng đất thì phải mạnh dạn sửa sai. Vì thế mà đồng chí Trường Chinh Bí thư Đảng phải thôi chức, đồng chí Hồ Viết Thắng bị kỷ luật. Do đó, TW Đảng và bác Hồ điều đồng chí Lê Duẩn ra Bắc vào tháng 4 năm 1957 để thay đ/c Trường Chinh làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành TW Đảng.
Khi đồng chí Lê Duẩn sắp ra cũng như khi ra rồi thì có nhiều chuyện rắc rối về mối quan hệ gia đình do tác động của bên ngoài dội vào làm cho cô Nga và ông Ba mất ăn, mất ngủ, lao tâm khổ trí trong việc xử lý chuyện đời riêng tư… Thế rồi họ cũng tìm được cách để giải tỏa được mọi sự căng thẳng về tâm lý, tình cảm để cuối cùng họ có được niềm tin và hy vọng quý giá trong đời sống và công việc. Trong HK của cô Nga đã viết:
Cô Nga sang Bắc kinh lần này để công tác học tập và nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ báo chí, đồng thời cũng để cho khuây khỏa những điều không vui về những rắc rối trong mối quan hệ với gia đình bà con bên chồng, chuyện vợ cả, vợ hai và mặt khác cũng để tránh những tiếng ra, tiếng vào của một số chị em lãnh đạo Phụ nữ chưa thông cảm cho hoàn cảnh xây dựng gia đình riêng của họ. Điều đó sẽ làm ảnh hưởng đến tình cảm và công việc của anh Ba và cô Nga.
Trong Hồi ký của cô có những đoạn đã ghi lại như sau:
Sau mấy năm công tác và học tập ở TQ rồi trở về VN, cô Nga không muốn về lại làm việc tại cơ quan cũ ở Hà Nội vì phải ở chung nhà với anh Ba rồi lại có tiếng ra, tiếng vào của những người thành kiến làm cô càng thêm buồn phiền và đau khổ, mặc dù cô rất muốn về sống chung với anh Ba để chăm sóc anh ấy, bù đắp lại những ngày hai người xa nhau. Hơn nữa cô cũng muốn anh Ba được gần gũi các con để dạy bảo các con trong những tháng năm còn thơ ấu.
Thế rồi cô Nga được phân công về công tác trong Ban biên tập báo Hải Phòng. Bốn mẹ con sống trong một phòng do Thành uỷ Hải Phòng cấp. Tại đây cô Nga tất bật suốt ngày lo công việc chung và một mình lo việc gia đình, chăm sóc, dạy dỗ con cái... Rồi bao chuyện hàng ngày của xã hội và gia đình cứ dội vào đầu óc cô, tình cảm cô bao điều trăn trở, bao niềm xúc động…
Trong HK của cô đã ghi lại:
Sau những năm cô Nga sang TQ rồi về Hải Phòng công tác, trong hơn 6 năm(12/1957-7/1964), đi đâu cô cũng đem mấy đứa con đi theo để lo chăm sóc chu đáo cho chúng. Nhiều người đều biết lòng cô và tình cảm các con luôn gắn bó yêu thương anh Ba. Nhưng anh không thể nào làm gì để lấp hết những gay cấn về tâm lý của hai người vợ trong hai hoàn cảnh khác nhau. Anh đành phải nén lòng buồn bực và thu xếp dần dần cho mọi sự yên ổn để an tâm làm việc lớn cho Đảng cho dân tộc. Các bạn bè, đồng chí và bà con có ai có thể hiểu hết cho anh Ba nỗi niềm ấy không?
Có người nói rằng, thời nay để hai vợ làm gì cho rắc rối phức tạp! nhất là đối với anh là người lãnh đạo cao cấp của Đảng nữa thì khó mà giữ được uy tín. Nhưng anh Ba thì không đành tách vợ nào ra được. Vợ nào cũng là vợ. Vợ cả là vợ hiếu nghĩa trách nhiệm, vợ hai là vợ tình yêu và sự nghiệp. Vợ nào cũng đã có mấy con với anh rồi, làm sao có thể chia lìa ai được! Điều thổ lộ này của anh Ba thì ông già thân sinh, em gái của anh và cả hai người vợ đã hiểu. Chính cũng vì thế mà cô Nga sau khi công tác ở Hải phòng lên lại Hà Nội cô đã bàn bạc với anh Ba đề nghị Ban Tổ chức cho cô đi vào Nam công tác để giữ trọn niềm tin của quê hương, đất nước và cho anh Ba yên tâm công tác. Mặt khác, cô Nga cũng nghĩ rằng, như thế sẽ tạo điều kiện có dịp cho anh Ba bù đắp lại những thiệt thòi làm vợ của chị cả Sương trong mười mấy năm trời xa cách biệt tăm chồng bị tù đày rồi vào Nam hoạt động cách mạng.
Trong HK của cô Nga mục “Chuẩn bị về Nam” đã thể hiện điều đó:
PHẦN III
Con đường đi vào Nam của cô Nga thật gian nan nguy hiểm. Cô đi theo chuyến tàu bí mất không số. Nhớ lại chuyến đi này cô viết:
Cô Nga vào Nam được phân công về công tác miền Tây Nam Bộ. Thời kỳ này ở Miền Nam tình hình chính cuộc giữa địch và ta vẫn còn rất căng thẳng. Tuy Luật 10/59 của Ngô Đình Diệm đưa máy chém đi khắp nơi để uy hiếp dân chúng và cán bộ cách mạng, cũng đã qua rồi. Sự tàn ác ấy của Ngô Đình Diệm không ngăn nỗi được lòng dân yêu Tổ quốc và ủng hộ cách mạng. Cả nhà Ngô Đình Diệm phải đền tội, trả giá cho sự tàn ác của họ đối với dân tộc với đất nước.
Nhân dân và cán bộ cách mạng miền Nam còn đối mặt với âm mưu của địch hàng ngày thật là gian nan nguy hiểm. Nhưng đồng bào và cán bộ ta thì kìm chế, nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định đình chiến ở VN, còn kẻ địch thì cứ lấn tới hoài. Nhưng rồi “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn” dần dần chúng ta đã phá tan được mọi âm mưu xảo quyệt của chúng, nhưng ta cũng tổn thất nhiều trong cuộc chiến với quân Mỹ.
Trong HK của cô Nga đã phần nào nói lên điều ấy:
Cô Nga vào Miền Nam công tác được mấy năm phải lăn lộn với tình thế căng thẳng của cuộc đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang của quân dân Miền Nam rất mạnh mẽ. Những năm ấy, kẻ địch rất sáo riết càn quét để tiêu diệt VC và khủng bố kìm kẹp đồng bào ta không cho ngóc đầu dậy. Cô Nga hồi đó cũng túi bụi, bộn bề công việc. Nào là công tác báo chí, tuyên huấn; nào là công tác phụ nữ, dân vận.v.v…
Lúc bấy giờ phong trào đấu tranh chống giặc ở Miền Nam đang dấy lên rầm rộ khắp nơi. Có nhiều tấm gương xả thân diệt Mỹ cứu nước và khôn khéo bảo vệ cán bộ cách mạng. Phong trào chống Mỹ ngụy ngày càng dâng cao làm chao đảo tinh thần của ngụy quân, ngụy quyền ở nhiều nơi và thậm chí họ bỏ rơi đồn bót chạy về với đồng bào theo cách mạng. Khí thế sôi nổi, phấn khởi của toàn quân và dân miền Nam trào lên khắp nơi khi biết tin chuẩn bị cuộc tấn công nổi dậy toàn Miền Nam.
Tình hình diễn biến thời cuộc lúc bấy giờ cũng được cô Nga nêu lên trong HK có mấy đoạn như sau:
Sự tổ chức phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng quân dân miền Nam với các đơn vị quân chủ lực miền Bắc chi viện vào cho cuộc tấn công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã thể hiện sức mạnh chính nghĩa của chúng ta đã đồng loạt đánh tan quân giặc khắp nơi. Quân ta đã chiếm lĩnh được nhiều đô thị quan trọng. Nhưng khách quan mà nói thì trận tấn công mở rộng đồng loạt này cũng chỉ là một cuộc thử sức quân lực giữa ta và địch để có thêm những bài học lớn, có ý nghĩa quan trọng về chiến thuật và chiến lược quân sự. Vì thế nên sự tổn thất về tính mạng và khí tài trong chiến dịch này là rất nặng nề, không thể tránh khỏi được. Chiến tranh là vậy, có cái mất, có cái được! Đó là chuyện tất yếu. Nhưng ý nghĩa sâu xa và lớn lao của chiến dịch tấn công Tết Mậu Thân này mới là quý giá…
Trong HK của cô Nga đã nói lên phần nào về những diễn biến chiến sự giữa ta và địch trong những ngày lịch sử đó:
Sau chiến dịch tấn công của quân dân ta dịp Tết Mậu Thân 1968, tuy quân ta đã đánh tan được quân giặc ở nhiều vị trí quan trọng của các thành phố, đô thị nhưng ta không đủ sức để chiếm giữ hẳn lâu dài trước tình thế quân giặc đang mạnh. Còn quân Mỹ, ngụy qua cuộc chiến này chúng rất hoảng sợ và càng đề cao cảnh giác và ra sức càn quét. Chúng dùng đủ mọi phương tiện binh khí tối tân để cố tiêu diệt hết VC và đàn áp dân chúng các vùng nông thôn có che giấu cán bộ VC. Thời kỳ này là thời kỳ quân và dân ta vô cùng khốn khổ, nguy nan. Nhưng mọi người cán bộ cách mạng cũng như nhân dân đều tỉnh táo nghĩ cách đối phó với quân giặc dưới sự chỉ đạo của Khu ủy để tránh bớt những tổn thất do địch gây nên, đồng thời nhằm củng cố tinh thần cho cán bộ, đồng bào vững lòng quyết tâm chiến đấu bền bỉ đến thắng lợi cuối cùng.
Trong HK của cô Nga đã nói lên được nội dung ấy:
Trong quá trình công tác ở Miền Nam, việc đi lại hoạt động của nhiều cán bộ từ vùng này sang vùng khác cũng gặp nhiều trở ngại, khó khăn khi đi ngang qua những vùng địch chiếm. Đôi lúc cán bộ ta phải trà trộn vào với đồng bào đi công khai, lúc thì trót lọt, lúc thì cũng nguy nan, nhất là gặp phải những kẻ phản bội đầu hàng địch thì khó mà sống nổi. Như trong HK có đoạn đã ghi:
Sau khi đã có hiệp định Paris năm 1973 đình chiến, nhưng địa thế của ta và địch đan xen nhau rất phức tạp nên cứ xẩy ra nhiều chuyện lấn vùng, ép dân của địch làm cho ta cũng bức xúc không thể chịu nhân nhượng chúng mãi, ta đành phải có chủ trương đánh chiếm lại đất và dân. Do đó tình hình chiến sự lại xẩy ra căng thẳng thêm.
Trong HK đã nêu rõ tình hình này như sau:
Hết.
Ghi chú:
Sau khi viết xong bài này, tôi đã gửi cho bà Nguyễn Thụy Nga và gọi điện vào TP HCM vào chiều ngày 2/4/2011 để hỏi thăm sức khỏe của bà đồng thời nói cho bà biết tôi đã được đọc quyển Hồi ký (chưa xuất bản chính thức) của bà từ năm ngoái 2010 và năm nay 2011 tôi mới viết bài: “TÔI ĐÃ ĐỌC HỒI KÝ CỦA BÀ NGUYỄN THỤY NGA”. Tôi nói cảm tưởng của tôi rất xúc động khi biết được nhiều chuyện riêng tư và công tác của bà trong những hoàn cảnh thật gian nan, đau khổ…nhưng bà đã kiên trì dũng cảm vượt qua số phận để vững bước đi lên trên con đường chính nghĩa mà mình đã chọn.
Sau đó tôi hỏi thêm bà: “Tại sao bà không đưa cho họ xuất bản chính thức để cho nhiều người được đọc một quyển Hồi ký rất trữ tình và đầy tính chất sử liệu sống động hay như thế? Có lẽ có một số chuyện đụng chạm đến người này, người khác, nước này, nước khác không có lợi cho mối quan hệ chính trị và ngoại giao trong và ngoài nước… Bà có thể bỏ bớt những chỗ đó đi thì sẽ được xuất bản đấy. Vì cuộc đời chìm nổi của bà rất hay, có thể cho nhiều người biết để đồng cảm, chia sẻ những nỗi buồn vui…”.
Bà Nga trả lời ngay với tôi: “Nếu thế thì người mà tôi hết mực thương yêu và quý trọng nhất của đời tôi đã được nhắc đến trong Hồi ký của tôi không phải là anh Ba Duẩn nữa!”. Bà nói vậy nên tôi cũng không nói gì thêm và tôi chúc bà sức khoẻ để cống hiến thêm cho đời những điều bổ ích xuất phát từ tấm lòng nhân ái của một người vợ, một người mẹ Việt Nam.
Tôi quên đề nghị bà nên thay đổi một chữ trong nhan đề của HK “Bên nhau trọn đời” thành “Thương yêu nhau trọn đời” thì hợp với thực tế hơn. Mặt khác cũng để khỏi bị trùng lặp với nhan đề của một quyển HK ở Trung Quốc: “Bên nhau trọn đời” của tác giả Cố Mạn đã công bố năm 2003.
*********
Nguyễn Hồng Trân
(cựu GV Đại học Khoa học Huế);
Phủ Cam, Phước Vĩnh, TP Huế Quý Xuân, năm Tân Mão -2011