Hà Tĩnh là tỉnh ven biển phía bắc của vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung Việt Nam.[4][5] Thủ phủ của tỉnh là phường Thành Sen.
Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, Hà Tĩnh có diện tích: 5.994 km², xếp thứ 27; dân số: 1.622.901 người, xếp thứ 27; GRDP 2024: 112.855.090 triệu VNĐ, xếp thứ 27; thu ngân sách 2024: 17.972.968 triệu VNĐ, xếp thứ 23; thu nhập bình quân: 51,60 triệu VNĐ/năm, xếp thứ 21.[6]
Tỉnh Hà Tĩnh được thành lập lần đầu tiên năm 1831, đời vua Minh Mạng trên cơ sở chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (phía Bắc sông Lam); Hà Tĩnh (phía nam sông Lam). Theo đó, tỉnh Hà Tĩnh lúc thành lập với gồm 2 phủ Đức Thọ và Hà Hoa của trấn Nghệ An trước đó.
Năm 1976, Hà Tĩnh sáp nhập với Nghệ An, lấy tên là Nghệ Tĩnh. Năm 1991, Quốc hội Việt Nam khóa VIII ra nghị quyết chia tỉnh Nghệ Tĩnh, tái lập tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh.[7][8][9]
Hà Tĩnh trải dài từ 17°54’ đến 18°37’ vĩ Bắc và từ 106°30’ đến 105°07’ kinh Đông, có vị trí địa lý:
Phía đông dãy Trường Sơn với địa hình "hẹp, dốc" và nghiêng từ tây sang đông, độ dốc trung bình 1,2%, có nơi lên đến 1,8%.[10] Lãnh thổ chạy theo hướng tây bắc - đông nam và bị chia cắt bởi các sông suối của dãy Trường Sơn với những dạng địa hình chuyển tiếp, xen kẻ lẫn nhau. Sườn Đông của dãy Trường Sơn nằm ở phía tây, có độ cao trung bình 1500 mét, đỉnh Rào Cọ 2.235 mét, phía dưới là vùng đồi giống bát úp, tiếp nữa là dải đồng bằng chạy ra biển có độ cao trung bình 5 mét và sau cùng là dãy cát ven biển bị những cửa lạch chia cắt. Tỉnh Hà Tĩnh bị chia làm 4 loại địa hình gồm:[10]
Hà Tĩnh nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nóng ẩm. Nó chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam, vì những cơn gió từ miền Bắc đổ vào và thời tiết ấm áp hơn của miền Nam. Nhiệt độ trung bình 24 °C-24,8 °C. Hàng năm, Hà Tĩnh có 2 mùa mưa và hè:[11]
Hà Tĩnh hiện có 276.003 ha rừng, gồm 199.847 ha rừng tự nhiên và 76.156 ha rừng trồng, với độ che phủ của rừng đạt 45 %. Rừng tự nhiên là kiểu rừng nhiệt đới, vùng núi có thể gặp các loại rừng lá kim á nhiệt đới. Rừng trồng phần lớn là thông nhựa. Hà Tĩnh có thảm thực vật rừng với hơn 86 họ và 500 loài cây gỗ, gồm những loại gỗ "quý" như lim xanh, sến, táu, đinh, gụ, pơmu... và những loài thú như hổ, báo, hươu đen, dê sừng thẳng, trĩ, gà lôi và các loài bò sát khác.[12]
Hà Tĩnh có bờ biển dài 137 km với những cửa sông với khoảng 267 loài cá, thuộc 90 họ, 20 loài tôm, nhuyễn thể như sò, mực,...[13] Về khoáng sản, tỉnh có trữ lượng khoáng sản nằm rải rác ở hầu khắp các huyện gồm than đá, sắt, thiếc, phosphorit, than bùn, cao lanh, cát thủy tinh, thạch anh.[14]
Hà Tĩnh có những sông chảy qua, con sông lớn nhất là sông La và sông Lam, ngoài ra có sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, sông Ngàn Trươi, Rào Cái. Tổng chiều dài các con sông khoảng 400 km, tổng sức chứa 13 tỷ m³. Còn hồ Kẻ Gỗ, hồ Sông Rác, hồ Cửa Thờ Trại Tiểu, đập Đồng Quốc Cổ Đạm... ước khoảng 600 triệu m³.[15]
Tỉnh Hà Tĩnh được chia ra thành 69 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó bao gồm 60 xã và 9 phường.[16]
Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Hà Tĩnh[17] Tên Diện tích(km²) Dân số(người) Phường (09) Bắc Hồng Lĩnh 35,31 28.729 Hà Huy Tập 32,62 28.742 Hải Ninh 39,37 20.399 Hoành Sơn 70,48 21.004 Nam Hồng Lĩnh 36,47 22.309 Sông Trí 69,90 37.314 Thành Sen 28,23 90.983 Trần Phú 29,50 38.404 Vũng Áng 82,98 21.339 Xã (60) Can Lộc 65,70 41.153 Cẩm Bình 33,14 25.305 Cẩm Duệ 193,57 23.870 Cẩm Hưng 103,80 21.964 Cẩm Lạc 115,86 19.399 Cẩm Trung 32,72 19.466 Cẩm Xuyên 82,98 33.977 Tên Diện tích(km²) Dân số(người) Cổ Đạm 62,67 34.635 Đan Hải 37,77 28.212 Đông Kinh 27,57 20.986 Đồng Lộc 70,55 27.783 Đồng Tiến 33,57 18.614 Đức Đồng 47,29 11.531 Đức Minh 23,58 18.718 Đức Quang 30,31 17.515 Đức Thịnh 53,39 41.401 Đức Thọ 48,93 40.064 Gia Hanh 45,39 28.473 Hà Linh 140,43 12.622 Hồng Lộc 33,78 17.042 Hương Bình 215,56 17.530 Hương Đô 140,83 14.287 Hương Khê 165,89 29.994 Hương Phố 135,68 18.633 Hương Sơn 32,62 31.486 Tên Diện tích(km²) Dân số(người) Hương Xuân 263,14 17.422 Kim Hoa 88,28 19.114 Kỳ Anh 64,74 32.689 Kỳ Hoa 73,28 16.045 Kỳ Khang 48,85 23.771 Kỳ Lạc 169,13 12.865 Kỳ Thượng 218,82 15.822 Kỳ Văn 135,75 17.700 Kỳ Xuân 72,94 23.574 Lộc Hà 35,63 40.979 Mai Hoa 45,85 11.065 Mai Phụ 31,93 29.828 Nghi Xuân 77,65 37.524 Phúc Trạch 201,42 18.135 Sơn Giang 86,32 18.962 Sơn Hồng 209,04 8.409 Sơn Kim 1 223,21 5.782 Sơn Kim 2 208,46 5.123 Tên Diện tích(km²) Dân số(người) Sơn Tây 129,21 14.755 Sơn Tiến 80,97 20.935 Thạch Hà 31,18 31.220 Thạch Khê 46,32 17.528 Thạch Lạc 27,60 17.682 Thạch Xuân 72,53 16.015 Thiên Cầm 40,55 32.998 Thượng Đức 58,32 10.015 Tiên Điền 31,60 24.833 Toàn Lưu 60,65 18.784 Trường Lưu 49,92 23.569 Tùng Lộc 37,49 20.944 Tứ Mỹ 38,68 20.069 Việt Xuyên 32,10 16.986 Vũ Quang 533,50 14.991 Xuân Lộc 33,08 25.448 Yên Hòa 38,27 17.597Năm 1831, vua Minh Mạng chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (phía Bắc sông Lam); Hà Tĩnh (phía nam sông Lam). Tỉnh Hà Tĩnh được thành lập với 2 phủ Đức Thọ và Hà Hoa của trấn Nghệ An trước đó. Năm Minh Mạng 17 (1838) lập thêm huyện Hoa Xuyên thuộc phủ Hà Hoa (Hoa Xuyên tức là Cẩm Xuyên sau này). Năm Minh Mạng 21 (1840), 2 huyện (trước của vương quốc Viêng Chăn bị diệt vong bởi Xiêm La và đất châu Trịnh Cao) là: Cam Cát (tức Khamkheuth tỉnh Borikhamxay) và Cam Môn (tức vùng các huyện Hương Khê, Vũ Quang và phia Đông Bắc tỉnh Khammuane ngày nay), từng nhập vào phủ Trấn Định (tức Ngọc Ma) thuộc xứ Nghệ của Đại Nam, đến lúc đó Minh Mạng cho nhập vào phủ Đức Thọ của tỉnh Hà Tĩnh. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), đổi phủ Hà Hoa thành phủ Hà Thanh (do kỵ húy), đồng thời Thiệu Trị lấy cả 3 phủ Trấn Định, Trấn Tĩnh, Lạc Biên (trước thuộc Nghệ An) nhập vào tỉnh Hà Tĩnh.[19]
Ngày 2 tháng 3 năm 1992, thành lập thị xã Hồng Lĩnh thuộc tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở tách thị trấn Hồng Lĩnh; 2 xã Đức Thuận và Trung Lương; 1 phần xã Đức Thịnh thuộc huyện Đức Thọ cùng với 2 xã Đậu Liêu và Thuận Lộc thuộc huyện Can Lộc.[20]
Ngày 4 tháng 8 năm 2000, thành lập huyện Vũ Quang trên cơ sở tách 6 xã: Đức Lĩnh, Đức Giang, Đức Liên, Ân Phú, Đức Hương, Đức Bồng thuộc huyện Đức Thọ, 5 xã: Hương Thọ, Hương Minh, Hương Đại, Hương Điền, Hương Quang, Hương Trạch, thuộc huyện Hương Khê và xã Sơn Thọ thuộc huyện Hương Sơn.[21]
Ngày 7 tháng 2 năm 2007, thành lập huyện Lộc Hà trên cơ sở tách 7 xã: Ích Hậu, Hồng Lộc, Phù Lưu, Bình Lộc, Tân Lộc, An Lộc, Thịnh Lộc thuộc huyện Can Lộc và 6 xã: Thạch Kim, Thạch Bằng, Thạch Châu, Mai Phụ, Hộ Độ, Thạch Mỹ thuộc huyện Thạch Hà.[22]
Ngày 28 tháng 5 năm 2007, chuyển thị xã Hà Tĩnh thành thành phố Hà Tĩnh.[23]
Ngày 10 tháng 4 năm 2015, thành lập thị xã Kỳ Anh trên cơ sở tách thị trấn Kỳ Anh và 11 xã thuộc huyện Kỳ Anh.[24]
Ngày 1 tháng 1 năm 2025, giải thể huyện Lộc Hà, địa bàn sáp nhập vào thành phố Hà Tĩnh và huyện Thạch Hà.[25]
Từ đó, tỉnh Hà Tĩnh có 1 thành phố, 2 thị xã và 9 huyện.
Lịch sử phát triển dân số Năm Dân số 1995 1.247.700 1996 1.253.200 1997 1.258.600 1998 1.264.400 1999 1.271.100 2000 1.268.400 2001 1.265.100 2002 1.260.800 2003 1.256.300 2004 1.252.200 2005 1.247.800 2006 1.243.600 2007 1.239.000 2008 1.234.000 2009 1.227.800 2010 1.228.200 2011 1.229.300 2012 1.243.195 2013 1.249.104 2014 1.255.253 2015 1.261.288 2016 1.266.700 2017 1.270.814 2018 1.277.500 2019 1.288.866 2020 1.296.620 2021 1.301.601Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Hà Tĩnh đạt 1.288.866 người, mật độ dân số đạt 205 người/km².[26] Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 251.968 người, chiếm 19,5% dân số toàn tỉnh,[27] dân số sống tại nông thôn đạt 1.036.898 người, chiếm 80,5%.[28] Dân số nam đạt 640.709 người,[29] trong khi đó nữ đạt 648.157 người.[30] Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0.49 ‰.[31]
Theo thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, trên địa bàn toàn tỉnh có 31 dân tộc cùng 1 người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc Kinh là đông nhất với 1.224.869 người, xếp ở vị trí thứ 2 là người Mường với 549 người, người Thái đứng ở vị trí thứ 3 với 500 người, thứ 4 là người Lào với 433 người.[32] Tỉnh có 1 số dân tộc khác gồm: Tày, Khmer, Hoa, Nùng, H'Mông, Dao, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Sán Chay, Chăm, Cơ Ho, Xơ Đăng, Sán Dìu, Hrê, Raglay, Mnông, Thổ, Khơ Mú, Tà Ôi, Mạ, Giẻ - Triêng, La Chí, Chứt, Lô Lô, Cơ Lao, Cống.[32]
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, Hà Tĩnh có 8 Tôn giáo khác nhau chiếm 150.383 người. Trong đó, nhiều nhất là Công giáo có 149.273 người, thứ 2 là Phật giáo có 1.069 người và các tôn giáo khác là Phật giáo Hòa Hảo 7 người, Hồi giáo Việt Nam 6 người, Minh Lý Đạo 4 người, Tin Lành 18 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa 1 người, Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương 5 người.[32]
Riêng đạo Công giáo, Hà Tĩnh là 1 trong 15 tỉnh, thành phố có số lượng tín đồ đạo Công giáo đông nhất toàn quốc, có 6 giáo hạt, 58 giáo xứ, 231 họ đạo, 3 tu viện thuộc dòng Mến Thánh giá Vinh, ngoài ra còn 1 số cơ sở, nhóm nữ tu Dòng Mến Thánh giá, Dòng Bác ái. Năm 2019, toàn tỉnh có 56 linh mục và hơn 150 nữ tu ở các cơ sở dòng, nhóm nữ tu, có 149.273 giáo dân, chiếm 11,5% dân số, có 131/262 xã, phường, thị trấn có đông giáo dân và có 461 khu dân cư vùng giáo, trong đó 114 vùng giáo toàn vùng.[33]
Hà Tĩnh có đường Quốc lộ 1 đi qua với chiều dài 127,3 km (xếp thứ 3 trong các tỉnh có Quốc lộ 1 đi qua), 107 km đường cao tốc Bắc - Nam phía Đông, 87 km đường Hồ Chí Minh và tuyến đường sắt Bắc Nam chạy dọc theo hướng Bắc Nam với chiều dài 70 km. Tỉnh có đường Quốc lộ 8A chạy sang Lào qua cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo với chiều dài 85 km, Quốc lộ 12C dài 55 km đi từ cảng Vũng Áng qua Quảng Bình đến cửa khẩu Cha Lo sang Lào và Đông Bắc Thái Lan.[35]
Hà Tĩnh có 2 di tích được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt:
Ngoài ra, Di tích Ngã ba Đồng Lộc ở huyện Can Lộc và Chỉ huy Sở Tiền phương Tổng cục Hậu cần, Bộ Tư lệnh 559, 500 ở huyện Hương Khê là hai điểm thuộc di tích quốc gia đặc biệt Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh.
Link nội dung: https://hnou.edu.vn/tieng-ha-tinh-a6879.html