
Năm 1972 , khi trở thành học sinh Trung học, tôi vừa tập tểnh hát câu : “em ước mơ , mơ gì tuổi mười hai tuổi mười ba…”, thì tiếng gào rú của đại bác, xe tăng đã vang trên miền giới tuyến. Bài hát “ Tuổi mộng mơ “ dở dang, lời ca bị đứt quãng , gia đình tôi phải rời phố thị trong tháng 3 năm đó.
Cứ tưởng tạm lánh vài ngày rồi sẽ trở về , nhưng không ngờ đó là một chuyến đi biền biệt : không bao giờ tôi tìm được ngôi nhà xưa .
Quảng Trị của ngày hôm qua chỉ còn là những vùng ký ức mông mênh.
Ba năm sau, năm 1975 thời cuộc còn thay đổi lớn hơn đối với những người sống ở Miền Nam, đặc biệt là những gia đình có người thân tham gia trong chính quyền cũ.
Gia đình tôi chia ly phân tán. Hai người anh trai và người anh rể của tôi phải đi học tập cải tạo như nhiều người đã từng làm việc trong chế độ Sài Gòn ngày trước, riêng người anh đầu là sĩ quan của sư đoàn 9 BB phải cải tạo tận miền Bắc xa xôi gần 7 năm trời.
Thời gian đã làm mờ dần vết dấu về quê hương, và những kỷ niệm buồn vui của những ngày xưa cũ .
Nhưng 44 năm sau, năm 2019, tôi tình cờ đọc một câu chuyện trên mạng và từ đó tôi biết chị.
Ấn tượng đầu tiên khiến tôi bị lôi cuốn vì chị sinh ra, lớn lên ở Quảng Trị, chị học Nguyễn Hoàng, chị nhắc tôi nhớ hình ảnh về quê hương và những người lính như anh tôi một thuở.
Không gian và thời gian trong những câu chuyện , tôi thấy quá quen thuộc
Chuyện của chị giống như trong cuộc đời đến nỗi tôi không nghĩ đó là văn viết nữa , mà tôi cứ nghĩ đó là tiếng một người kể lại vì nó gần gũi, bi thương và cảm động quá.
Tôi bị cuốn hút khi biết thêm rằng: chị đã có những năm tháng học Đại học ở Huế, và còn hơn thế : hoàn cảnh nhà chị cũng na ná nhà tôi.
Như bao người khác, truyện của chị cũng có một mối tình hình thành và lớn lên theo sự biến đổi của thời cuộc, theo sự nghiệt ngã của chiến tranh. Nhưng với tôi, nét đặc trưng của Ngô Hương Thủy không phải ở đó.
Trong truyện của chị, tôi đã tìm thấy quê hương của mình.
Có nhiều cách gợi nhớ về quê , đó có thể là hình ảnh cây cầu, dòng sông, bến nước , mồ mả cha ông, cánh đồng mưa nắng, những cơn lụt, những trận gió Lào…. Còn với Ngô Hương Thủy , nó đơn giản và mộc mạc lắm:
Ta sẽ gặp một lại một vùng quê ven thị xã Quảng Trị là chợ Sãi, với quán nem lụi mụ Năm, quán bánh bèo mụ Thí, một cái tên làng rất quen : làng Hậu Kiên ( Hồng nhan), Ta có thể hình dung một Chi khu Mai Lĩnh ngày xưa, con đường đi lên ngã ba Long Hưng , lò gạch của ông Trương Kế ( Tình Phụ), về một làng Bồ Bản của O Lựu chất phác hiền lành ( O Lựu), về một con đường thân thuộc mang tên : Hồ Đắc Hanh có xóm Ba Cây Dừa, có chú hàng xóm làm ở Ty Tiểu Học rất thân với nhà chị cho đến bây giờ.
Ta nghe chị nhắc về một loại cây mọc trên vùng đất khô cằn quê tôi mà hàng rào nhà nào cũng có: Cây Chè Tàu.
Và những chiếc kẹo Gia- địa thơm ngon của một thời thơ ấu.
Những người xa quê như chúng tôi bật cười và thấy ấm lại niềm vui vì lâu lắm rồi mới được nghe những từ ngữ đậm đặc chất “quê nhà” như: “Thợ cúp”,“Cầu Xia”…
Ngày xa Quảng Trị tôi mới chỉ là một đứa trẻ mà đã có những nỗi nhớ thăm thẳm về quê hương khi đọc những câu chuyện của chị, thì tôi chắc rằng với những người lớn tuổi, họ sẽ trào lên một nỗi nhớ da diết hơn rất nhiều.
Chị viết về quê hương bằng hoài niệm, nên chị có cái cảm xúc rất thật của người xa xứ .
Huế là nơi chị có những năm tháng mộng mơ vào đời khi bước vào ngưỡng cửa đại học. Đó cũng được xem là quê hương thứ hai của chị, nghe chị kể về Huế có khi còn rành rẽ hơn những người gốc Huế: những con đường trong thành Nội, những lăng tẩm đền đài, hồ Tịnh Tâm, đường về Đập Đá, Cồn Hến…
Và những địa danh mà khi nhắc đến đối với người Huế là một sự bi thương: Bãi Dâu. Nhưng tôi vẫn rất ngạc nhiên thích thú khi chị kể vanh vách các xã của miền quê Phú Lộc : những Vinh Mỹ, Vinh Giang, Vinh Hiền, Phá Tam Giang …( Huế ơi! Kỷ niệm).
Chị nhớ Huế như nhớ một sự cổ kính, quý tộc, đài các và luôn dành cho cho Huế một sự trân trọng về nơi chị đã có những năm tháng lưu lại học tập. Tôi cũng đã thấy thấp thoáng bóng dáng tình yêu của chị trên miền đất Thần Kinh này, chị gợi lại một địa chỉ mà chắc những người Huế thượng lưu rời quê trước năm 1975 sẽ rất nhớ : Cercle- nằm dưới chân cầu Mới , nay là cầu Phú Xuân.( Người về từ Thành Cổ)
Quê hương trong truyện của chị không chỉ là vùng Trị Thiên quen thuộc.
Thỉnh thoảng tôi còn được chị nhắc đến một vùng kinh tế mới hoang xa có tên là Đạ Teh ở Lâm Đồng hay một nơi núi rừng hẻo lánh trên Đak- nông. Đó là vùng đất buồn của những người thất thế ở quê tôi lên nương náu kiếm sống trong lúc tuyệt vọng.
Quê hương được chị nhắc lại vừa có những tháng ngày êm đềm thơ mộng vừa có những tháng ngày trào dâng trong nước mắt.
Nhưng còn một dấu ấn nữa trong truyện ngắn của chị đó là hình ảnh bi hùng của người lính miền Nam trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến.
Hầu hết những người đàn ông trong truyện của chị đều là người lính, họ là những chàng trai trường Võ Bị vừa mới ra trường, họ là những sĩ quan chỉ huy đứng tuổi, và cũng có người chưa thực sự là lính nhưng cũng đã trải qua một khóa huấn luyện ngắn, để rồi cái tên ” sĩ quan biệt phái” trở thành một nỗi oan nghiệt trong cuộc đời dạy học của họ sau này.(Nước trôi qua cầu)
Chị viết về họ rất hay.
Tôi biết nước mắt nhiều người đã chảy xuống khi đọc trang sách chị viết về cuộc đời của những người này .
Chiến tranh trôi qua gần nửa thế kỷ, bên thắng cuộc đã viết nhiều câu chuyện của họ , nhưng có một mãng lẫn khuất không bao giờ họ viết được là hoàn cảnh, tình cảm, tâm trạng, suy nghĩ và thân phận của những người lính miền Nam khi cuộc chiến vừa tàn.
Ngòi bút của chị đã khai thác vấn đề này sâu sắc và đăc biệt có một sự cảm thông rất dào dạt tình người. Chị đã đi vào từng ngóc ngách riêng tư của nhiều gia đình bờ Nam vĩ tuyến 17, tất nhiên có cả gia đình chị.
Đến giờ nầy, tôi vẫn cứ hỏi: tại sao một người con gái như chị , năm 1975 mới chỉ 21-22 tuổi mà lại viết về người lính rành rẽ như như thế? Chị khắc họa người sinh viên sĩ quan Đà lạt theo ống kính máy ảnh từ đôi mắt trắng trong, nhân văn và rất thật giữa cuộc đời.
Là người được đào tạo bài bản về văn chương, chị có đầy đủ kiến thức và những thủ pháp làm cho ngòi bút của của chị tạo ra những cảm xúc trong lòng người đọc.
Nhưng trong những câu chuyện của chị, một lần nữa tôi chỉ nghiêng về sự thật. Và tôi tìm sự thật trong những câu chuyện đó.
Cuối cùng, tôi tìm thấy câu chuyện về một người Thiếu tá chết ở chiến trường Quảng Trị, đó là một chiến binh dũng cảm , một người cha đầy trách nhiệm của hai đứa con, người chồng yêu dấu của một cô giáo dạy tiểu học. Một đồng đội chan hòa , tin yêu với bao bè bạn. Anh mất năm 1971.
Chị mô tả ngày đưa quan tài của anh về. Ôi ! sao mà giống bài thơ của Lê Thị Ý được Phạm Duy đã phổ nhạc dưới một cái tựa: Tưởng như còn người yêu.
Trong câu chuyện này, chị đã cho thấy tình anh em, tình đồng đội, tình huynh đệ cùng trường Võ Bị của người lính cao quý biết dường nào.
Tình cảm và cách đối xử của các anh làm cho tôi liên tưởng đến chữ “ huynh đệ chi binh” ghi trên gói thuốc Rubi Queen Quân Tiếp Vụ năm xưa. Hai chữ “Niên trưởng” được chị nhắc rất nhiều lần trong các câu chuyện , chị thuộc tên của những người này như tên của những người anh trang nghiêm và tôn kính.
Người lính trong câu chuyện của chị ít khi mang theo vũ khí mà chỉ có những trái tim yêu thương.
Đặc biệt là tình yêu trẻ thơ. Họ thực hiện lời hứa sắt son với đồng đội cho dù hy sinh cả tình yêu của mình.
Và như bao người trên trái đất này, họ yêu quý sự sống. Họ biết chiến tranh là nỗi sợ hãi của con người vì chiến tranh sẽ là chết chóc.
Trong câu chuyện của chị có một người sĩ quan tên Bình đã giải thích lý do chưa lấy vợ bằng một câu thơ cổ rất nổi tiếng :
“Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.” ( Lương Châu từ- Vương Hàn)
Khi nghe, tôi thực sự cảm động bởi tấm lòng và suy nghĩ của anh: anh không muốn có một người vì anh mà chờ đợi , bởi anh rất biết rằng: sự chờ đợi có khi là mãi mãi.
Những nhân vật tôi đang đề cập là trong câu chuyện của chị viết có tên: “Những đồng tiền mừng tuổi”.
Tôi tin là đây là một câu chuyện thật vì ngay sau tựa đề là một dòng chữ rất trang nghiêm tôn kính:
“Kính viếng hương hồn Trung tá Nguyễn văn Bình - Khóa 19- ….”.
Tôi không biết “thần tượng” của chị có phải là một chàng trai Võ Bị hay không? Nhưng có thể thấy rằng qua ngòi bút của mình, chị đã xây dựng gần như hoàn chỉnh về một “ tượng đài” người sĩ quan Võ Bị về các mặt: cuộc sống, tâm tình, chiến đấu và hy sinh.
Cuối cùng, sẽ là thiếu sót nếu người đọc bỏ qua hai câu chuyện rất đặc biệt chị viết về mình có tên là “ Thư gửi người chồng cũ ” và “Sự hy sinh thầm lặng của Ba” .
Đọc xong , ta mới thấy rằng : Ngô Hương Thủy đáng được ngưỡng mộ vì ngoài đời chị là một người phụ nữ nghị lực và bản lĩnh, giàu lòng hy sinh và cao thượng , đặc biệt là một người con rất hiếu thảo.
Truyện ngắn của chị , tôi rất thích, một phần vì lẽ đó.
Từ FB. Khang Ho Trang Trung học Nguyễn Hoàng Quảng Trị
Link nội dung: https://hnou.edu.vn/cam-nghi-ve-que-huong-ngan-a14609.html