Cô ấy gửi mail cho tôi bảo là: “Đây là bản thảo gốc nhé, chúc vui, hy vọng chú không ngủ gật.”, ở dưới có dòng lưu bút: “P/S: We have arts in order to not die of the truth.”, nôm na là Chúng ta có nghệ thuật để không bị chết chìm bởi sự thật. Câu này là của Friedrich Nietzche, Google bảo vậy. Nietzche là tác giả của Zarathustra đã nói như thế, tôi mua quyển này ở hội sách Nhã Nam lần trước nhưng lười chưa đọc.
Tên bản thảo nguyên gốc mà cô ấy đưa là Câu chuyện về hai chị em song sinh, bức tranh cô gái khỏa thân và cây vĩ cầm màu đỏ, một cái tên khá dài. Cô ấy giải thích với tôi là bởi vì chẳng nghĩ ra được cái tên nào ngắn gọn và phù hợp hơn. Nhưng về sau nhà xuất bản đã cắt lại chỉ còn là Bức tranh cô gái khỏa thân và Cây vĩ cầm màu đỏ. Một điều nữa mà nhà xuất bản chắc cũng sẽ sửa, đấy là ở bản thảo đầu tiên, cô ấy chỉnh page color màu xanh. Lần này thì cô ấy giải thích là vì khi đánh máy, cô ấy không thích nhìn màu trắng, cô ấy không thích cái gì sáng quá, và màu xanh có thể cho cô ấy cảm thấy chút bóng tối.
Câu truyện bắt đầu với một chàng họa sĩ cô độc ngày nào cũng tới đúng một con phố chỉ để từ xa ngắm nhìn một thiếu nữ chơi đàn vĩ cầm và ước ao có thể vẽ một bức tranh khỏa thân về cô. Sau đó, tình cờ anh gặp một cô gái điếm có ngoại hình giống hệt như người thiếu nữ đó. người sẵn sàng đến xưởng vẽ trong suốt 235 ngày để làm mẫu cho bức họa trong mơ của anh. Kể từ đây, 3 nhân vật lên đường dấn thân vào một cuộc hành trình kiếm tìm những uẩn khúc quá khứ đã bị chôn vùi, kiếm tìm cái tôi đã bị quên lãng, và kiếm tìm bản thể của cái đẹp nguyên thủy nhất.
Bức tranh cô gái khỏa thân và Cây vĩ cầm màu đỏ giống như một bản nhạc được chuyển soạn thành câu chữ, hơn là một tiểu thuyết thuần túy cầu tạo từ văn chương. Phần lớn thời gian, nó là một điệu andante chậm và buồn. Và mặc dù những nhân vật trong truyện bị ám ảnh bởi vĩ cầm và những khúc nhạc tươi đẹp của Mozart, tôi lại thấy cuốn sách này được viết theo nhịp một bản Nocturne của Chopin được chơi trên cây đàn dương cầm. Cách tác giả thong dong rải rắc những khoảng lặng mênh mông suốt dọc câu chuyện làm tôi liên tưởng đến cái cách Arthur Rubinstein dìu dặt bấm những phím đàn đen trắng. Nếu như niềm vui là phim trắng thì nỗi buồn là phím đen. Không khác gì những phím trắng, những phím đen cũng biết hát.
Rồi đến chính các nhân vật cũng không giống như những nhân vật bình thường mà giống như sự đầu thai làm người của 4 dây đàn trên một cây violin. Cuộc đời họ đan xen không ngừng, như một bản nhạc không thể chỉ chơi bằng một dây đàn. Còn số phận chính là người nghệ sĩ đang kéo cây archer tạo ra một khúc biến tấu trong nhất thời khoảnh khắc. Các nhân vật hầu như chẳng nói năng gì, họ cứ để mặc mình chìm vào những suy tư về thời gian, về kiếp người, về những vì sao, về nỗi cô độc, về mưa, về thiên chúa, về những đôi mắt, về một cái trần nhà loang lổ, về những ảo giác trong cơn mộng mị, về một tờ giấy trắng. Họ trò chuyện thông qua việc vẽ vời, viết lách, chơi nhạc. Có những đoạn trầm buồn như nốt nhạc ngân dài. Có những đoạn lời văn nhịp nhàng chênh vênh như lời thơ và réo rắt như đoạn chạy ngón trong một bản nhạc cổ điển. Có những đoạn lại mộng mị và vài phần biến dị như âm nhạc thuộc trường phái biểu hiện phá vỡ các quy chuẩn về cái đẹp.
Đối với những ai đã quen tác giả, như tôi, khi đọc cuốn sách này, sẽ thấy không khó để nhận ra cô ấy. Sẽ không có gì bàng hoàng cả vì những trăn trở của cô ấy ai biết thì đều đã quen. Không muốn làm mếch lòng tác giả nhưng nhiều khi tôi thấy cô ấy có niềm tin hơi mù quáng vào nghệ thuật. Cô ấy thực sự tin rằng cái đẹp cứu rỗi thế giới, và cô ấy hơn một lần kể với tôi về việc danh họa Van Gogh đã tự sát vì thế giới quá điên cuồng không có chỗ cho một tâm hồn lương thiện như ông. Cô ấy một mực nghĩ lí do Yasunari Kawabata tự sát cũng là như vậy. Hôm trước cô ấy viết một cái note về lời cuối cùng của nhà soạn nhạc J.S. Bach trước khi lâm chung rằng: “Đừng khóc cho tôi, vì nơi tôi sắp đến chính là nơi âm nhạc được sinh ra.”. Cô ấy khóc khi nghe bản giao hưởng số 4 của Gustav Mahler.
Tác phẩm đầu tay thường là một bức phác họa chân thực nhất về tác giả. Cuốn sách này cũng vậy. Mọi nhân vật, hình ảnh đều mang trong nó một ẩn dụ về cái đẹp của nghệ thuật và sự cô đơn trong lòng nghệ thuật, thứ mà bản thân tác giả tôn thờ tới mức nhờ nhân vật họa sĩ nói ra: “Nếu trên đời có một thứ tôn giáo nào bất diệt, thì đó chính là nghệ thuật, đừng bao giờ nghi ngờ về điều đó.”.
Cơ bản là có hai loại người: những người đam mê nghệ thuật và những người thờ ơ với nó. Với những người đam mê nghệ thuật, lời khuyên là hãy vừa đọc cuốn sách này, vừa mở một đĩa nhạc cổ điển của Mozart hoặc Chopin, đừng quên một ly café nữa, và nếu được, tốt nhất hãy chọn một ngày bầu trời u buồn và xám xịt. Còn với những người thờ ơ với nó, hãy đọc trước rỗi hẵng làm những việc kể trên, cuối cùng là hãy viết câu này ngay dưới dấu chấm hết của tác phẩm: We have arts in order to not die of the truth. Chúng ta có nghệ thuật để không bị chết chìm bởi sự thật.
Nói đùa chứ trên đời có ba loại người cơ. Loại thứ 3 nằm ở lưng chừng giữa 2 loại trên, như tôi chả hạn. Tôi đang thử tìm hiểu về Van Gogh và ngay mai sẽ đi lục trong tủ sách cuốn Zarathustra đã nói như thế để đọc lại. Cô ấy nhất định sẽ rất tự mãn khi biết tôi đành phải thừa nhận rằng: Đời là buồn. Nhưng dẫu có buồn đến mấy, thì cũng “không thể để nước mắt rơi xuống những phím nhạc tươi đẹp của Mozart.”.